Lịch sử hoạt động Hawker_Hurricane

Trận chiến Pháp

Sea Hurricane IB bay trong đội hình, tháng 12 năm 1941

Trả lời lại một yêu cầu từ chính phủ Pháp gửi mười phi đội tiêm kích đến cung cấp việc bảo vệ từ trên không, Đại tướng Không quân (Air Chief Marshal) Sir Hugh Dowding, Tổng tư lệnh Bộ chỉ huy Tiêm kích Không quân Hoàng gia, cho rằng số lượng này sẽ làm suy yếu nặng việc phòng thủ Anh Quốc, nên ban đầu chỉ bố trí sang Pháp bốn phi đội Hurricane số 1, 73, 85 và 87, giữ lại những chiếc Spitfire để phòng thủ "Nhà". Đơn vị đầu tiên là Phi đội 73 đến nơi ngày 10 tháng 9 năm 1939, không lâu sau được tiếp nối bởi ba phi đội kia, và ít lâu sau nữa các phi đội 607 và 615 đến gia nhập. Vào tháng 5 năm sau, các phi đội số 3, 79 và 504 đến tăng cường chúng khi cuộc tấn công chớp nhoáng của Đức đạt đến cao trào, và đến ngày 13 tháng 5 năm 1940, có thêm 32 chiếc Hurricane nữa. Tất cả mười phi đội Hurricane theo yêu cầu từ đó hoạt động trên đất Pháp và cảm nhận được toàn bộ sức mạnh cuộc tấn công của Đức Quốc xã. Đến ngày 17 tháng 5, kết thúc tuần lễ đầu tiên của cuộc chiến tranh, chỉ còn có ba phi đội còn gần đủ sức mạnh hoạt động. Cho dù bị tổn thất nặng, những chiếc Hurricane cũng tiêu diệt được gần gấp đôi số máy bay Đức.

Trung úy Cobber Kain thuộc Phi đội 73 đã có chiến công đầu tiên vào tháng 10 năm 1939 khi đang trú đóng tại Pháp, sau này trở thành "Ách" đầu tiên của Không quân Hoàng gia trong chiến tranh. Đến tháng 6 năm 1940, trước khi quay trở lại Anh Quốc, anh bị rơi máy bay trong một cú "lộn vòng mừng chiến thắng" và bị thiệt mạng.

Vào ngày 27 tháng 5 năm 1940, 13 máy bay thuộc Phi đội 501 đã đánh chặn 24 chiếc Heinkel He 111 được hộ tống bởi 20 chiếc Messerschmitt Bf 110, và trong trận chiến tiếp sau đó, 11 Heinkel được ghi nhận bị "tiêu diệt" và những chiếc khác bị hư hại, với ít thiệt hại cho những chiếc Hurricane.[5]

Trận chiến Anh Quốc

Hawker Hurricane IIC PZ865 của tổ chức Battle of Britain Memorial Flight, chiếc Hurricane cuối cùng được sản xuất

Vào cuối tháng 6 năm 1940, sau khi Pháp thất trận, phần lớn của 36 phi đội tiêm kích thuộc Không quân Hoàng gia được trang bị Hurricanes. Trận chiến Anh Quốc chính thức diễn ra từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 31 tháng 10 năm 1940, nhưng những trận chiến ác liệt nhất diễn ra từ ngày 8 tháng 8 đến ngày 21 tháng 9 năm 1940. Cả Spitfire và Hurricane đều nổi tiếng trong vai trò của chúng trong việc phòng ngự Anh Quốc chống lại sức mạnh của Không quân Đức – nói chung Spitfire sẽ đánh chặn những máy bay tiêm kích Đức để những chiếc Hurricane tập trung vào việc tiêu diệt các máy bay ném bom, nhưng cho dù "con ngựa nòi" Spitfire có khả năng không thể tranh cãi, chính là "con ngựa thồ" Hurricane đã lập được nhiều chiến công hơn cho Không quân Hoàng gia trong giai đoạn này, ghi được 1.593 trong tổng số 2.739 chiến công được công bố.

Huân chương Chữ thập Victoria duy nhất được trao tặng trong Trận chiến Anh Quốc là dành cho Đại úy Eric Nicolson, về một hành động vào ngày 16 tháng 8 năm 1940, khi anh ta bị ba chiếc máy bay tiêm kích Me 110 tấn công. Nicolson bị thương, còn chiếc Hurricane của anh bị hư hại và bắt lửa, nhưng kết cấu chắc chắn của chiếc máy bay còn giữ được. Trong khi đang cố thoát ra khỏi buồng lái, Nicolson nhận thấy một trong những chiếc Me 110 còn tiếp tục lượn vòng quanh máy bay của anh. Anh quay trở vào buồng lái giờ đây đã là một địa ngục lửa, và trong khi đang bị cháy, mang chiếc Hurricane ra khỏi vòng xoáy bổ nhào, nghênh địch và bắn rơi chiếc Me 110.

Bắc Phi

Chiếc Hurricane II được vội vàng nhiệt đới hóa tiếp theo sau sự kiện Ý tham gia chiến tranh vào tháng 6 năm 1940. Những máy bay này sau đó được vận chuyển qua Pháp bằng đường không đến Phi đội 80 Không quân Hoàng gia tại Ai Cập để thay thế những chiếc Gloster Gladiator. Hurricane ghi được chiến công đầu tiên tại Mặt trận Địa Trung Hải vào ngày 19 tháng 6 năm 1940, khi Trung úy P. G. Wykeham-Barnes báo cáo bắn rơi được hai chiếc Fiat CR.42.

Hurricane phục vụ cho nhiều phi đội thuộc các nước Khối Thịnh Vượng Chung trong Không lực Sa Mạc. Chúng chịu tổn thất nặng tại Bắc Phi sau khi những chiếc Messerschmitt Bf 109 phiên bản E và F được gửi tới chiến trường này và dần dần được thay thế trong vai trò máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không bởi chiếc Curtiss Tomahawks/Kittyhawks kể từ tháng 6 năm 1941. Tuy nhiên, những phiên bản tiêm kích-ném bom ("Hurribomber") vẫn giữ được ưu thế trong vai trò tấn công mặt đất, nhờ vào trang bị vũ khí khá ấn tượng bốn khẩu pháo 20 mm và tải trọng bom 500 lb.

Trong và sau quá trình năm ngày pháo kích vào El Alamein thực hiện từ đêm 23 tháng 10 năm 1942, sáu phi đội Hurricane báo cáo đã tiêu diệt được 39 xe tăng, 212 xe tải và xe bọc thép, 26 máy bay tiếp tế, 42 pháo, 200 xe cộ khác và bốn kho nhiên liệu và đạn dược, thực hiện 842 phi vụ và bị tổn thất 11 phi công. Trong khi thực hiện vai trò hỗ trợ gần mặt đất, Hurricane đặt căn cứ tại Castel Benito, Tripoli, đã tiêu diệt sáu xe tăng, 13 xe bọc thép, mười xe tải, năm xe nữa bánh xích, một pháo và xe móc, và một xe thông tin vô tuyến vào ngày 10 tháng 3 năm 1943 mà không bị thiệt hại.[6]

Phòng thủ Malta

Chiếc Hurricane đóng một vai trò đáng kể trong việc phòng thủ Malta. Khi Ý tham gia chiến tranh vào ngày 10 tháng 6 năm 1940, lực lượng phòng không Malta chỉ dựa vào vài chiếc Gloster Gladiator đang xoay xở để chống cự lại số lượng áp đảo của không lực Italian trong ba tuần lễ đầu tiên. Bốn chiếc Hurricane đến tham gia vào cuối tháng 6, và cùng nhau đối đầu các cuộc tấn công cho đến cuối tháng 7 bởi 200 máy bay địch đặt căn cứ tại Sicilia, với sự thiệt hại một chiếc Gladiator và một chiếc Hurricane. Những sự tăng viện tiếp theo đến nơi vào ngày 2 tháng 8 với thêm 12 chiếc Hurricane và hai chiếc Blackburn Skua, khiến phía Italia phải sử dụng đến những chiếc máy bay bổ nhào Đức Junkers Ju 87 nhằm cố gắng phá hủy các sân bay. Cuối cùng, trong một nỗ lực nhằm vượt qua sự phòng thủ chắc chắn của những chiếc máy bay ít ỏi này, Không quân Đức đặt căn cứ trên những sân bay Sicilia chỉ để thấy rằng Malta không phải là một mục tiêu dễ dàng. Sau nhiều cuộc tấn công vào đảo trong nhiều tháng tiếp theo, và sự tăng viện của thêm 23 chiếc Hurricane vào tháng 4 năm 1941, và thêm một đợt tăng cường nữa một tháng sau đó, Không quân Đức rời bỏ Sicilia để chuyển sang hoạt động tại Mặt trận phía Đông vào tháng 6 năm đó.[7]

Vì Malta có một vị trí chiến lược trên con đường vận chuyển biển quan trọng tiếp tế cho Chiến dịch Bắc Phi, Không quân Đức quay trở lại trả thù bằng một đợt tấn công thứ hai lên đảo vào đầu năm 1942. Nhưng phải đến tận tháng 3, khi cuộc công kích lên đến đỉnh điểm, mới có 15 chiếc Spitfire đến từ tàu sân bay HMS Eagle để gia nhập vào những chiếc Hurricane đã có mặt tại chỗ để cùng giúp đỡ việc phòng thủ, nhưng nhiều ciếc máy bay mới đã bị mất trên mặt đất và lại những chiếc Hurricane phải gánh chịu sức nặng chủ yếu của các đợt tấn công ban đầu cho đến khi có đợt tăng viện tiếp theo. Liên quan đến cuộc tấn công ác liệt thứ hai vào đảo Malta, Trung tá Không quân (Wing commander ) P.B. "Laddie" Lucas đã viết:[8]

Trong nhiều tuần khoảng một chục chiếc Hurricane II, được sự giúp sức bởi việc chỉ huy tài tình của Đại tá Không quân (Group captain) A.B. Woodhall, mặc cho mọi bất lợi, đối đầu lại cuộc tấn công không ngơi ngớt ngày càng dâng cao bởi lực lượng của Thống chế Kesselring vào Grand Harbour và các sân bay. Bị áp đảo về số lượng, thường là 12 hay 14 chọi một, và sau đó bị qua mặt về tính năng – với sự xuất hiện của những chiếc Me 109F tại Sicilia, những phi công của một số ít máy bay cũ mà nhân viên mặt đất đã nỗ lực một cách dũng cảm để giữ cho chúng bay được, tiếp tục đẩy mạnh việc tấn công, rẽ đường xuyên qua màn chắn của những máy bay tiêm kích Đức và các pháo phòng không của ta, để tiếp cận những chiếc máy bay Ju 8788 khi chúng bổ nhào xuống các mục tiêu.

Phòng không ở Nga

Những chiếc Hurricane Mk II đóng vai trò quan trọng trong việc phòng không vào năm 1941 khi Liên Bang Xô Viết nhận thấy nguy cơ bị Quân đội Đức tấn công trên một mặt trận rộng lớn trải từ Leningrad, Moskva, đến các giếng dầu ở phía Nam. Anh Quốc quyết định giúp đỡ Liên Xô bằng cách gửi tiếp liệu qua đường biển đến các cảng ở cực bắc, và vì các đoàn vận tải cần phải di chuyển trong phạm vi tấn công của Không quân Đức đặt căn cứ tại nước Phần Lan láng giềng, người ta quyết định gửi một số máy bay Hurricane Mk IIB, bay cùng các phi đội 81 và 134, để bảo vệ. Hai mươi bốn máy bay được chuyên chở trên chiếc tàu sân bay HMS Argus đi đến ngoài khơi cảng Murmansk vào ngày 28 tháng 8 năm 1941, và thêm 15 chiếc được đóng thùng chuyên chở trên các tàu hàng. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ các đoàn tàu vận tải, những chiếc máy bay này cũng tham gia hộ tống những máy bay ném bom Nga. Sự quan tâm của địch tại khu vực này giảm bớt vào tháng 10, lúc mà các phi công Không quân Hoàng gia huấn luyện các đồng nghiệp Xô Viết tự sử dụng những chiếc Hurricane, và cho đến cuối năm vai trò của Không quân Hoàng gia kết thúc, nhưng những chiếc máy bay ở lại, trở thành những chiếc đầu tiên trong hằng nghìn máy bay Đồng Minh được chấp nhận sử dụng tại Liên Bang Xô Viết.[9]

Singapore & Đông Ấn thuộc Hà Lan

Hawker Hurricane Mk.II của Không quân Hoàng gia Anh bị bắn rơi ngày 8 tháng 2 năm 1942 trong Trận đánh Singapore.

Tiếp theo sau sự mở màn của Mặt trận Thái Bình Dương, 51 chiếc Hurricanes (MkII) được đóng thùng gửi sang Singapore cùng với 24 phi công, hạt nhân của năm phi đội. Chúng đến nơi vào ngày 3 tháng 1 năm 1942, vào giai đoạn mà các phi đội tiêm kích Đồng Minh trú đóng tại Singapore đang lái những chiếc Brewster Buffalo đang bị áp đảo trong Chiến dịch Malayan. Lực lượng máy bay tiêm kích của Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản, đặc biệt là kiểu Nakajima Ki-43, đã từng bị đánh giá không đúng mức về khả năng, số lượng và chiến lược của các chỉ huy.

Các phi công Hoàng gia Anh mới đến tạo thành Phi đội 232. Thêm vào đó, Phi đội 488 Không quân Hoàng gia New Zealand, một phi đội Buffalo, chuyển sang sử dụng Hurricane. Phi đội 232 đi vào hoạt động ngày 20 tháng 1 và chịu đựng thiệt hại đầu tiên cũng như chiến công đầu tiên của Hurricane tại Viễn Đông ngay trong ngày đó, khi Thiếu tá Lawrence Landels bị bắn rơi và thiệt mạng; ông được báo thù bởi số hai của mình, Trung sĩ Jimmy Parker. Phi đội hình như đã tiêu diệt được ba chiếc Ki-43 vào ngày hôm đó, và bị thiệt hại ba chiếc Hurricane. Tuy nhiên, giống như những chiếc Buffalo trước đây, những chiếc Hurricane bắt đầu chịu đựng thiệt hại nặng nề trong các trận không chiến căng thẳng.

Vào những ngày 27 đến 30 tháng 1, thêm 48 chiếc Hurricane (MkIIA) đến cùng Không đoàn 226 (gồm bốn phi đội) trên chiếc tàu sân bay HMS Indomitable, từ đó chúng bay đến các sân bay có tên mã là P1 và P2, gần Palembang, Sumatra trong lãnh thổ Đông Ấn thuộc Hà Lan.

Vì không có được các hệ thống cảnh báo sớm thích hợp, các cuộc không kích của Nhật đã phá hủy 30 chiếc Hurricane trên mặt đất ở Sumatra, đa số bị mất trong một cuộc không kích vào ngày 7 tháng 2. Sau khi quân Nhật đổ bộ vào Singapore vào ngày 10 tháng 2, phần còn lại của Phi đội 232 và Phi đội 488 rút lui về Palembang. Tuy nhiên, quân nhảy dù Nhật bắt đầu xâm chiếm Sumatra vào ngày 13 tháng 2. Những chiếc Hurricane đã tiêu diệt sáu tàu vận tải Nhật vào ngày 14 tháng 2, nhưng trong quá trình đó bị mất bảy máy bay. Ngày 18 tháng 2, những chiếc máy bay Đồng Minh còn lại cùng các đội bay chuyển về Java. Đến lúc này, chỉ còn 18 chiếc Hurricane còn hoạt động được so với số lượng ban đầu 99 chiếc.

Sau Trận chiến Java, một vài phi công và một chiếc Hurricane duy nhất còn lại được thoái lui bằng đường biển về Australia. Một phi công, Trung sĩ Jimmy King, bắn rơi được 6,5 máy bay trong chiến dịch này.